Căn cứ Quyết định số 66/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (chương trình 661) được thực hiện từ năm 1998 đến năm 2000 với mục tiêu chính là tăng độ che phủ rừng trên toàn quốc. Các hoạt động chính của chương trình này gồm khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung hoặc trồng rừng mới. Sau khi Việt Nam lần đầu tiên đệ trình Mức phát thải tham chiếu rừng/ Mức tham chiếu rừng (FREL/FRL) lên UNFCCC vào tháng 1/2016, việc báo cáo mức độ thành công của chương trình 661 trở nên cần thiết nhằm đề nghị điều chỉnh mức tham chiếu có tính đến sự phục hồi rừng sau chương trình 661. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn này, Viện Nghiên cứu Lâm sinh (SRI) đã thực hiện dự án “Đánh giá tỷ lệ thành rừng của chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (661)” do FAO tài trợ.
Phương pháp giải đoán ảnh được sử dụng nhằm xác định các diện tích có rừng mới hoặc xúc tiến tái sinh thành công. Để ước tính tổng quan mức độ thành công của chương trình, trước tiên 15 tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái ở Việt Nam được chọn để nghiên cứu về tính đầy đủ của thông tin. Sau đó, dựa trên hai tiêu chí về khả năng tiếp cận thị trường gỗ và sự đầy đủ của số liệu, chỉ năm tỉnh đáp ứng yêu cầu là Yên Bái, Lạng Sơn, Nghệ An, Bình Định và Kon Tum được chọn để thu thập, phân tích hồ sơ thiết kế trồng rừng và dữ liệu hiện trạng rừng.
Dữ liệu của 11.013 lô rừng được thu thập, với tổng diện tích 71.569 ha gồm cả rừng trồng mới và rừng được khoanh nuôi tái sinh, chiếm 11% tổng diện tích rừng trồng và khoanh nuôi tái sinh của chương trình 661 ở năm tỉnh này. Thông tin về các ô mẫu, gồm điểm trung tâm ô, diện tích ô, loại rừng (theo Điều 5, Luật Lâm nghiệp), phương thức tác động (rừng được khoanh nuôi, xúc tái sinh hay trồng mới), và loài cây trồng như trong hồ sơ thiết kế tái trồng rừng được tổng hợp và thể hiện trên bản đồ địa hình sử dụng MapInfo. Việc giải đoán ảnh sau đó được thực hiện trên ảnh Google Earth vào tháng 6 năm 2016 và được đối chiếu với ảnh Land-sat 8 mới nhất cùng thời điểm. Đối với diện tích rừng được trồng mới, một lô rừng được tính vào thành công của chương trình 661 nếu trạng thái của chúng được xác định là rừng trồng, hoặc rừng mới trồng hoặc mới thu hoạch. Đối với diện tích khoanh nuôi tái sinh, các lô có rừng tự nhiên được đánh giá là tái sinh thành công. Cuối cùng, tỷ lệ phần trăm các lô trồng mới hoặc tái sinh thành công được tính riêng cho từng loại rừng, theo từng phương thức tác động và theo từng nhóm chủ sở hữu ở mỗi tỉnh.
Mức độ thành công chung của chương trình 661 là 88% (SD = 7%) và mức độ thành công giữa các tỉnh là khác nhau. Kon Tum, với khả năng tiếp cận thị trường thấp, có tỷ lệ số lô rừng được trồng mới hoặc tái sinh thành công thấp nhất, 60%. Trong số 5 tỉnh Bình Định có tỉ lệ thành công cao nhất (93%). Tỷ lệ thành công của Lạng Sơn và Nghệ An cũng đạt trên 90%. Yên Bái có tỷ lệ thấp thứ hai (86%), chủ yếu do có nhiều lô khoanh nuôi tái sinh, trồng mới xen kẽ các loài Thông và cây bản địa chưa thành công. Những lô này nằm trong diện tích rừng phòng hộ và rừng đặc dụng ở vùng phía tây của tỉnh.
Đối với hai phương thức trồng rừng, có 2.739 lô rừng khoanh nuôi tái sinh, chiếm 25% tổng số lô rừng được khảo sát, còn lại là các lô được trồng mới. Tỷ lệ thành công của chương trình ở các lô rừng trồng và các lô khoanh nuôi tái sinh là tương đối giống nhau (lần lượt là 87% và 88%).
Xét theo từng loại rừng, Yên Bái là tỉnh duy nhất có các lô rừng đặc dụng được khảo sát. Với 8.120 lô, rừng phòng hộ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khu vực được đánh giá. Số lô rừng sản xuất và rừng đặc dụng lần lượt là 2.706 lô và 105 lô. Mức độ thành công của chương trình ở mỗi loại rừng khác nhau cũng khác nhau. Tỷ lệ thành công cao nhất (94%) thuộc về các lô rừng sản xuất và tỷ lệ thấp nhất (65%) là đối với rừng đặc dụng. Trong khi tỷ lệ thành công tính cho các diện tích rừng sản xuất giữa các tỉnh khá tương đồng (khoảng 93%), số lô rừng phòng hộ được tính vào thành công của chương trình chênh lệch nhiều giữa các tỉnh, với tỷ lệ cao nhất là 93% với Bình Định và thấp nhất là 60% với Kon Tum.
Mức độ thành công của chương trình cũng được tính cho từng nhóm chủ rừng. Các chủ sở hữu chính là các công ty, hộ gia đình và ban quản lý với diện tích chiếm 97% tổng số lô được đánh giá. Diện tích của các ban quản lý có tỷ lệ trồng rừng thành công thấp nhất, ở mức 83%. Các công ty và hộ gia đình đạt được tỷ lệ trồng rừng thành công rất cao (khoảng 90%), ngoại trừ Kon Tum (lần lượt là 53% và 66%). Các diện tích thuộc các ban quản lý ở Yên Bái, nằm ở vùng núi cao với khả năng tiếp cận thị trường thấp, trồng nhiều loài bản địa, chỉ đạt tỷ lệ thành công là 69%. Kết quả này cho thấy khả năng tiếp cận thị trường ảnh hưởng đến tỷ lệ trồng rừng thành công.